Giới thiệu chung về điểm du lịch

Cửu Đỉnh  (9 đỉnh) đặt tại sân Thế Miếu trong Hoàng Thành.

 

Chín đỉnh này được đúc từ cuối năm 1835 đến đầu năm 1837 thì hoàn thành. Ngày 4/3/1837, triều đình tổ chức lễ khánh thành rất lớn dưới sự chủ trì trực tiếp của Vua Minh Mạng.

Cửu Đỉnh

Cửu Đỉnh (9 đỉnh) đặt tại sân Thế Miếu trong Hoàng Thành. Chín đỉnh này được đúc từ cuối năm 1835 đến đầu năm 1837 thì hoàn thành. Ngày 4/3/1837, triều đình tổ chức lễ khánh thành rất lớn dưới sự chủ trì trực tiếp của Vua Minh Mạng.

Cửu Đỉnh biểu thị ước mơ về sự trường tồn mãi mãi của triều đình nhà Nguyễn và sự giàu đẹp của đất nước. Điều đó được thể hiện rất rõ trong việc đặt tên gọi cũng như tầm vóc và các họa tiết chạm nổi trên mỗi đỉnh.

Tên Đỉnh cũng chính là tên thụy của Vua sau khi mất được đưa vào thờ tại Thế Miếu: Cao Đỉnh (“Cao” miếu hiệu của vua Gia Long) được đặt ở chính giữa rồi tiếp đến hai bên trái, phải là Nhân Đỉnh (“Nhân” là miếu hiệu của Vua Minh Mạng), Chương Đỉnh (“Chương” là miếu hiệu của Vua Thiệu Trị), Anh Đỉnh (“Anh” là miếu hiệu của Vua Tự Đức), Nghị Đỉnh (“Nghị” là miếu hiệu của Vua Kiến Phúc), Thuần Đỉnh (“Thuần” là miếu hiệu của Vua Đồng khánh), Tuyên Đỉnh (“Tuyên” là miếu hiệu của Vua Khải Định); còn Dũ Đỉnh và Huyền Đỉnh chưa kịp tượng trưng cho Đua nào thì cách mạng tháng Tám đã xóa bỏ vĩnh viễn vương triều nhà Nguyễn.

Chín đỉnh được sắp thành một hàng ngang dưới thềm Hiển Lâm Các, mỗi đỉnh đều được đặt trên một phiến đá lớn rất vững vàng, nằm theo thứ tự đối diện với các án thờ trong Thế Miếu. Riêng Cao Đỉnh được đặt nhích về phía trước 3m với hàm ý để tôn vinh công lao to lớn của vị vua đầu tiên của triều đại.

Giá trị của Cửu Đỉnh trước hết nằm ở tầm vóc to lớn và trình độ đúc đồng tinh xảo của những người thợ thủ công Phường Đúc, Huế. Chiếc cao nhất tới 2,5m, chiếc thấp nhất 2,3m. Chu vi vòng lưng từ 4,64m tới 4,72m. Trọng lượng chiếc nặng nhất 2061kg, chiếc nhẹ nhất 1935kg. Các cặp quai trên miệng đỉnh không hoàn toàn giống nhau, cặp đúc vuông, cặp đúc tròn, cặp xoắn theo kiểu dây thừng. Chân đỉnh cũng khác nhau, có bộ uốn theo kiểu chân quỳ, có bộ đúc thẳng…

Về mỹ thuật, mỗi đỉnh có 17 bức hình chạm nổi chủ đề về trời biển, núi sông, chim, cá, hoa, quả và binh khí (những danh thắng, sản vật nổi tiếng của Việt Nam). Tất cả 153 mảng hình trên Cửu Đỉnh là 153 bức chạm độc lập, hoàn chỉnh, là sự kết hợp điêu luyện giữa nghệ thuật đúc và chạm nổi đồ đồng nước ta hồi đầu thế kỷ XIX.

Cửu Đỉnh thực sự là di sản văn hóa quý hiếm, có giá trị nhiều mặt của văn hóa Huế nói riêng, cả nước nói chung./.

 

Tên Đỉnh cũng chính là tên thụy của Vua sau khi mất được đưa vào thờ tại Thế Miếu: Cao Đỉnh (“Cao” miếu hiệu của vua Gia Long) được đặt ở chính giữa rồi tiếp đến hai bên trái, phải là Nhân Đỉnh (“Nhân” là miếu hiệu của Vua Minh Mạng), Chương Đỉnh (“Chương” là miếu hiệu của Vua Thiệu Trị), Anh Đỉnh (“Anh” là miếu hiệu của Vua Tự Đức), Nghị Đỉnh (“Nghị” là miếu hiệu của Vua Kiến Phúc), Thuần Đỉnh (“Thuần” là miếu hiệu của Vua Đồng khánh), Tuyên Đỉnh (“Tuyên” là miếu hiệu của Vua Khải Định); còn Dũ Đỉnh và Huyền Đỉnh chưa kịp tượng trưng cho Đua nào thì cách mạng tháng Tám đã xóa bỏ vĩnh viễn vương triều nhà Nguyễn.

Chín đỉnh được sắp thành một hàng ngang dưới thềm Hiển Lâm Các, mỗi đỉnh đều được đặt trên một phiến đá lớn rất vững vàng, nằm theo thứ tự đối diện với các án thờ trong Thế Miếu. Riêng Cao Đỉnh được đặt nhích về phía trước 3m với hàm ý để tôn vinh công lao to lớn của vị vua đầu tiên của triều đại.

Giá trị của Cửu Đỉnh trước hết nằm ở tầm vóc to lớn và trình độ đúc đồng tinh xảo của những người thợ thủ công Phường Đúc, Huế. Chiếc cao nhất tới 2,5m, chiếc thấp nhất 2,3m. Chu vi vòng lưng từ 4,64m tới 4,72m. Trọng lượng chiếc nặng nhất 2061kg, chiếc nhẹ nhất 1935kg. Các cặp quai trên miệng đỉnh không hoàn toàn giống nhau, cặp đúc vuông, cặp đúc tròn, cặp xoắn theo kiểu dây thừng. Chân đỉnh cũng khác nhau, có bộ uốn theo kiểu chân quỳ, có bộ đúc thẳng…

Về mỹ thuật, mỗi đỉnh có 17 bức hình chạm nổi chủ đề về trời biển, núi sông, chim, cá, hoa, quả và binh khí (những danh thắng, sản vật nổi tiếng của Việt Nam). Tất cả 153 mảng hình trên Cửu Đỉnh là 153 bức chạm độc lập, hoàn chỉnh, là sự kết hợp điêu luyện giữa nghệ thuật đúc và chạm nổi đồ đồng nước ta hồi đầu thế kỷ XIX.

Cửu Đỉnh thực sự là di sản văn hóa quý hiếm, có giá trị nhiều mặt của văn hóa Huế nói riêng, cả nước nói chung./.

 

Cửu Đỉnh,

Cửu Đỉnh tọa lạc tại kinh thành Huế, thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế, nơi từng là trung tâm chính trị và văn hóa của triều đại nhà Nguyễn. Địa chỉ cụ thể của Cửu Đỉnh nằm trong khuôn viên của Bảo tàng Cổ vật Hoàng cung, nơi bảo tồn và trưng bày nhiều di sản quý giá của Việt Nam.

Một trong những nét đặc trưng nổi bật của Cửu Đỉnh là kích thước to lớn và vẻ đẹp hoa văn tinh xảo. Mỗi chiếc đỉnh đều mang một tên gọi riêng và gắn liền với một vùng đất, một chủ đề cụ thể trong lịch sử và địa lý Việt Nam. Không chỉ là tác phẩm nghệ thuật, Cửu Đỉnh còn là chứng nhân ghi lại quá trình phát triển văn hóa, lịch sử của dân tộc qua các thời kỳ.

Vị trí địa lý

Khi đến Huế, du khách có thể dễ dàng tìm thấy Cửu Đỉnh khi ghé thăm Bảo tàng Cổ vật Hoàng cung. Nơi đây không chỉ là điểm đến thu hút đông đảo du khách mà còn là không gian để tìm hiểu về văn hóa, lịch sử Việt Nam, đặc biệt là triều đại Nguyễn.

 

Cửu Đỉnh,

Cửu Đỉnh không chỉ đơn thuần là những tác phẩm nghệ thuật mà còn là những dấu ấn quan trọng trong lịch sử Việt Nam. Chúng được đúc dưới triều đại vua Minh Mạng (1820-1841), bắt đầu vào năm 1835 và hoàn thành vào năm 1837. Việc chế tác Cửu Đỉnh là một công trình vĩ đại, đòi hỏi sự đầu tư lớn về tài nguyên, nhân lực và kỹ thuật.

Nguồn gốc 

Việc đúc Cửu Đỉnh mang ý nghĩa chính trị sâu sắc, thể hiện quyền lực tối cao của triều Nguyễn. Nhà vua muốn khẳng định vị thế của mình trước các triều đại khác cũng như trong lòng dân chúng. Các đỉnh được đặt tại kinh thành Huế không chỉ nhằm phục vụ nghi lễ mà còn thể hiện sự thịnh vượng và nền văn minh của đất nước.

Hình ảnh Cửu Đỉnh đã trở thành biểu tượng cho sức mạnh và sự thống nhất của lãnh thổ Việt Nam. Chúng không chỉ là những tác phẩm mỹ thuật mà còn là những chứng tích lịch sử, ghi lại những trang vàng son của triều đại Nguyễn.

Tóm lại, Cửu Đỉnh không chỉ là một điểm đến hấp dẫn mà còn là một phần không thể thiếu trong hành trình khám phá văn hóa, lịch sử của Việt Nam. Những giá trị văn hóa, nghệ thuật mà Cửu Đỉnh mang lại không chỉ khiến du khách ngưỡng mộ mà còn thể hiện lòng tự hào về di sản văn hóa dân tộc.

Cá nhân tôi đánh giá rằng Cửu Đỉnh là một trong những di sản văn hóa quý giá nhất của Việt Nam. Việc tham quan và tìm hiểu về Cửu Đỉnh không chỉ giúp du khách có cơ hội chiêm ngưỡng vẻ đẹp nghệ thuật mà còn hiểu rõ hơn về lịch sử và văn hóa của dân tộc Việt Nam.